Thứ tư, 24/04/2024 17:41 (GMT+7)

Tổng quan về 9 khu dự trữ sinh quyển thế giới ở Việt Nam

MTĐT -  Thứ năm, 17/05/2012 16:00 (GMT+7)

Theo dõi MTĐT trên

Khu dự trữ sinh quyển thế giới là một danh hiệu do UNESCO trao tặng cho các khu bảo tồn thiên nhiên có hệ động thực vật độc đáo, phong phú đa dạng.

Khu dự trữ sinh quyển thế giới (Biosphere Reserves) là một danh hiệu do UNESCO trao tặng cho các khu bảo tồn thiên nhiên có hệ động thực vật độc đáo, phong phú đa dạng. Theo định nghĩa của UNESCO, Khu dự trữ sinh quyển thế giới là những khu vực hệ sinh thái bờ biển hoặc trên cạn giúp thúc đẩy các giải pháp điều hòa việc bảo tồn sự đa dạng sinh học với việc phát triển bền vững khu vực đó có giá trị nổi bật, được quốc tế công nhận.

7 tiêu chí để trở thành khu dự trữ sinh quyển thế giới (Theo quy định của Điều 4, Khung Pháp lý của Mạng lưới toàn cầu các Khu DTSQ thế giới được thông qua tại Đại hội đồng UNESCO năm 1995) là:

– Khu vực đề cử có đại diện đa dạng các hệ sinh thái của những khu vực địa lý sinh vật chính, bao gồm cả những khu vực phát triển có các mức độ tác động khác nhau (gradiation) của con người.
– Khu vực đề cử có giá trị bảo tồn đa dạng sinh học cao.
– Khu dự trữ sinh quyển đó có thể thực hiện phát triển theo hướng bền vững ở cấp độ vùng.
– Khu dự trữ sinh quyển có diện tích thích hợp để đáp ứng được ba chức năng của khu dự trữ sinh quyển.
– Khu vực đó có đủ những phân vùng thích hợp để thực hiện 3 chức năng của khu dự trữ sinh quyển thông qua: (a) vùng lõi có diện tích đủ lớn, được thiết lập bởi pháp luật, hoặc một vùng được dành riêng cho việc bảo tồn lâu dài; (b) vùng đệm được xác định rõ ràng, bao quanh hoặc kết nối với (các) vùng lõi, nơi dành cho các hoạt động hài hòa với bảo tồn; (c) vùng chuyển tiếp dành cho việc khuyến khích và tạo ra các hoạt động quản lý và sử dụng tài nguyên bền vững.
– Có bố trí các cơ cấu quản lý để huy động sự tham gia của nhiều bên liên quan, giữa chính quyền địa phương, cộng đồng dân cư và khối tư nhân để thiết kế và thực hiện các chức năng của khu dự trữ sinh quyển.
– Cơ chế thực hiện việc quản lý và bảo tồn được UNESCO chấp nhận, bao gồm: (a) các cơ chế quản lý các hoạt động và khai thác của con người tại vùng đệm; (b) có một chính sách hoặc kế hoạch quản lý cho toàn khu dự trữ sinh quyển; (c) có một cơ chế hoặc đội ngũ quản lý được thành lập để thực hiện chính sách hoặc kế hoạch đó; (d) có các chương trình nghiên cứu, quan trắc, giáo dục và đào tạo.

Khu dự trữ sinh quyển được tổ chức thành 3 vùng:

– Vùng lõi: nhằm bảo tồn lâu dài đa dạng loài, các cảnh quan, hệ sinh thái.
– Vùng đệm: nằm bao quanh hoặc tiếp giáp vùng lõi. Ở đây, có thể tiến hành các hoạt động kinh tế, nghiên cứu, giáo dục và giải trí nhưng không ảnh hưởng đến vùng lõi.
– Vùng chuyển tiếp: nằm ở ngoài cùng. Tại đây, các hoạt động kinh tế vẫn duy trì bình thường trên cơ sở phát triển bền vững nguồn lợi tài nguyên thiên nhiên mà khu dự trữ sinh quyển đem lại.

Khu dự trữ sinh quyển thế giới có những nét giống và khác với một vườn quốc gia và khu bảo tồn thiên nhiên như sau:

– Vườn quốc gia hay khu bảo tồn thiên nhiên chỉ là một phần trong một khu dự trữ sinh quyển. Mỗi khu dự trữ sinh quyển có thể có nhiều vùng lõi là các vườn quốc gia hay khu bảo tồn thiên nhiên,
– Vườn quốc gia hay khu bảo tồn thiên nhiên chỉ thực hiện một trong ba chức năng của một khu dự trữ sinh quyển, đó là chức năng bảo tồn. Trong khi khu dự trữ sinh quyển, ngoài chức năng bảo tồn thiên nhiên còn thực hiện chức năng phát triển (kinh tế, văn hóa, du lịch sinh thái…) và chức năng hỗ trợ nghiên cứu khoa học, giáo dục…
– Khu dự trữ sinh quyển còn là một cách tiếp cận bảo tồn và phát triển bền vững tương đối mới (ra đời từ năm 1971) so với cách tiếp cận tập trung vào mục tiêu bảo tồn đa dạng sinh học của các vườn quốc gia hay khu bảo tồn thiên nhiên – vốn xuất phát từ khái niệm khu bảo vệ, vốn đã có lịch sử hình thành và tiến hóa qua nhiều thế kỷ.
– Các khu dự trữ sinh quyển thế giới được điều phối bởi Ủy ban MAB của UNESCO trong khi các khu bảo vệ (PA) được điều phối bởi IUCN.

1. Khu dự trữ sinh quyển rừng ngập mặn Cần Giờ

Khu dự trữ sinh quyển Cần Giờ còn gọi là Rừng Sác là một quần thể gồm các loài động, thực vật rừng trên cạn và thuỷ sinh, được hình thành trên vùng châu thổ rộng lớn của các cửa sông Đồng Nai, Sài gòn và Vàm Cỏ Đông, Vàm Cỏ Tây.

Sau giải phóng 1975 khu rừng ngập mặn này là Vùng Đất Chết bởi do bom đạn và chất hoá học tẩy trắng vùng đầm lầy này. Năm 1978, Cần Giờ được sáp nhập về Sài Gòn, sau đó 1 năm sau thì UBND TPHCM thành lập Lâm trường Duyên Hải – phát động chiến dịch trồng lại rừng Cần Giờ, với nhiệm vụ khôi phục lại hệ sinh thái ngập mặn. Diện tích rừng đã phủ xanh hơn 31 nghìn ha, trong đó có gần 20 nghìn ha rừng trồng, hơn 11 nghìn ha được khoanh nuôi tái sinh tự nhiên và các loại rừng khác.

Sự khôi phục và phát triển cũng như bảo vệ của khu rừng này ghi nhận sự đóng góp rất lớn của lực lượng thanh niên xung phong thành phốHCM và nhân dân Cần Giờ. Hiện khu rừng đã được giao cho chính người dân nơi đây chăm sóc và quản lý. Nơi đây được công nhận là một khu du lịch trọng điểm quốc gia Việt Nam.

Vào ngày 21- 01-2000, khu rừng này đã được UNESCO đã công nhận đây là khu dự trữ sinh quyển thế giới tại Việt Nam đầu tiên với hệ động thực vật đa dạng độc đáo điển hình của vùng ngập mặn.

2. Khu dự trữ sinh quyển – Vườn quốc gia Cát Tiên

Rừng Cát Tiên là rừng đất thấp ẩm ướt nhiệt đới được thành lập 1978. Sau đó, năm 1986 được nâng lên thành khu bảo tồn thiên nhiên Tây Nam Cát Tiên. Và năm 1992, rừng cấm Nam Cát Tiên được thành lập.

Vườn quốc gia Cát Tiên là một khu bảo tồn thiên nhiên nằm trên địa bàn ba huyện Tân Phú, Vĩnh Cửu, Cát Tiên, Bảo Lộc (Lâm Đồng) và Bù Đăng (Bình Phước), cách TPHCM 150 km. Vườn quốc gia Cát Tiên trên địa bàn của ba tỉnh Lâm Đồng, Đồng Nai và Bình Phước với tổng diện tích là 71.920 ha.

Năm 1978, Vườn quốc gia này được bảo tồn và được chia thành 2 khu vực: Nam Cát Tiên và Tây Cát Tiên chính. Và khu vực vùng ven là “Cát Lộc” phía bắc Cát Tiên cũng được bảo tồn do ở đây có loài tê giác “Java” sinh sống. Chính nhờ loài tê giác này đã làm khu bảo tồn này được cộng đồng thế giới quan tâm. Một cuốn hút khác của rừng Cát Tiên là sự tồn tại của đàn bò tót khổng lồ nặng trên hàng tạ, với số lượng khoảng 70-80 con, hiện cũng đang có nguy cơ tuyệt chủng cao do bị săn bắn trộm và mất chỗ ở vì rừng bị chặt phá. Năm 1998, ba khu này được sáp nhập thành vườn quốc gia. Thử nghiệm đa dạng sinh học gần đây nhất (2004) là việc thả 38 con cá sấu gốc Thái Lan vào hồ Bầu Sấu ở giữa rừng. Phát hiện khảo cổ trong khu vực giữa rừng này đang đặt ra dấu hỏi có một nền văn minh cổ đã tồn tại ở đây.

Rừng Cát Tiên bị chất độc da cam, hủy hoại nặng nề trong thời kỳ chiến tranh. Những khu vực bị rải chất độc da cam ngày nay chỉ có các loại tre, cỏ mọc, không có các loại cây lớn, cụ thể cho thấy số lượng thú rừng trước và sau chiến tranh giảm đáng kể. Ngoài ra, các dân tộc sinh sống quanh rừng đã đốt, phá rừng để làm nương rẫy gây ảnh hưởng không nhỏ đến rừng.

Con sông Ðồng Nai được bắt nguồn từ cao nguyên Lâm Viên – Ðà Lạt, qua hồ Ðơn Dương chảy vòng ôm trọn bao quanh khu rừng Cát Tiên để tưới mát cho toàn bộ khu rừng này trước khi đổ xuống lòng hồ Trị An và ra với biển Ðông. Bởi vậy, khu dự trữ sinh quyển Cát Tiên giàu có tài nguyên và hết sức đa dạng sinh học với hệ sinh thái đặc trưng dạng rừng ẩm miền nhiệt đới vùng thấp của miền Ðông Nam Bộ.

Rừng nguyên sinh Cát Tiên có khoảng 1.700 loài thực vật và hơn 700 loài thú, chim quý hiếm, trong đó có nhiều loại đặc biệt quý hiếm, hầu hết có trong Sách Ðỏ và cần được bảo vệ nghiêm ngặt như: Tê giác một sừng, gà so cổ hung, cá sấu nước ngọt, chim công, trĩ, đà điểu… các loại gỗ quý hiếm như thủy tùng, giáng hương, gõ, trắc, cẩm lai, căm xe… Các lực lượng chức năng, cán bộ, nhân viên nơi đây luôn có mặt để quản lý và hướng dẫn du khách ra vào thăm vườn, nhất là hướng dẫn cách phòng tránh các loài thú lớn khi du khách mải miết khám phá các khu vực giáp vùng rừng lõi.

Khu dự trữ sinh quyển Đồng Nai có 11 dân tộc anh em sinh sống và đây sẽ là hình mẫu về bảo tồn đa mục đích -một mô hình phát triển bền vững hài hòa giữa con người và thiên nhiên dựa trên sự đa dạng sinh học và đa dạng văn hóa được duy trì từ xa xưa của các đồng bào dân tộc ít người, các phong tục tập quán truyền thống được bảo tồn gắn liền với bảo tồn đa dạng sinh học.

Khu dự trữ sinh quyển Cát Tiên, được mệnh danh là lá phổi xanh giữa miền Ðông Nam Bộ, được UNESCO chính thức đổi tên thành Khu dự trữ sinh quyển Đồng Nai và công nhận là Khu dự trữ sinh quyển thế giới vào năm 2002.

3. Khu dự trữ sinh quyển – Quần đảo Cát Bà

Quần đảo Cát Bà là quần thể gồm 367 đảo trong đó có đảo Cát Bà ở phía Nam vịnh Hạ Long, ngoài khơi các thành phố Hải Phòng 30km, cách thành phố Hạ Long khoảng 25 km. Đảo thuộc huyện đảo Cát Hải, Hải Phòng.

Quần đảo nằm ở độ cao trung bình 70 m so với mực nước biển. Diện tích khoảng gần 300 km². Thị trấn Cát Bà gồm 6 xã Gia Luận, Hiền Hào, Phù Long, Trân Châu, Việt Hải, Xuân Đám. Ngoài ra còn có các đảo nhỏ khác: hòn Cát Ông, hòn Cát Đuối, hòn Mây, hòn Quai Xanh, hòn Tai Kéo,…

Đảo Cát Bà là đảo lớn nhất nằm trong cụm đảo của Vịnh Hạ Long còn có gọi là đảo Ngọc. Truyền thuyết kể lại, một thời các bà, các chị ở đây đứng ra lo việc hậu cần cho các ông đánh giặc, Cát Bà là đọc chệch của các Bà.

Năm 2004, nơi đây đã được UNESCO công nhận là khu dự trữ sinh quyển thế giới.

4. Khu dự trữ sinh quyển châu thổ sông Hồng

Khu dự trữ sinh quyển châu thổ sông Hồng là một khu dự trữ sinh quyển thế giới được UNESCO công nhận tại Việt Nam ngày 2 tháng 12 năm 2004, cho 2 phần đất phía Nam vùng duyên hải Bắc Bộ nằm ở 2 cửa sông Hồng và sông Đáy. Đây là khu dự trữ sinh quyển đất ngập nước ven biển thuộc 3 tỉnh châu thổ sông Hồng là Thái Bình, Nam Định và Ninh Bình.

Tổng diện tích của khu dự trữ sinh quyển này lớn hơn 105.558 ha, trong đó có 66.256 ha là đất liền ven biển và 39.302 ha mặt nước biển thuộc 25 xã của các huyện Kim Sơn (Ninh Bình); Nghĩa Hưng, Giao Thủy (Nam Định); Tiền Hải, Thái Thụy (Thái Bình). Vùng lõi có diện tích hơn 14.000 ha, vùng đệm gần 37.000 ha, vùng chuyển tiếp trên 54.000 ha, có số dân trên 128 ngàn người (2004).

Khu dự trữ sinh quyển đồng bằng sông Hồng gồm 3 phân vùng riêng biệt, thuộc các cửa sông Đáy, cửa Ba Lạt và cửa Thái Bình.

– Vùng ven biển cửa sông Đáy nằm trên 7 xã thuộc huyện Kim Sơn và 6 xã thuộc huyện Nghĩa Hưng.
– Vùng ven biển cửa cửa Ba Lạt nằm trên 4 xã thuộc huyện Giao Thủy và 3 xã huyện Tiền Hải.
– Vùng ven biển cửa cửa Thái Bình nằm trên 5 xã thuộc huyện Thái Thụy.

Khu dự trữ sinh quyển này chứa đựng nhiều tiềm năng để phát triển loại hình du lịch sinh thái, đồng quê và tắm biển.

5. Khu dự trữ sinh quyển ven biển và biển đảo Kiên Giang

Tại kỳ họp thứ 19 từ ngày 23 đến 27/10/2006 tại Paris, UNESCO đã công nhận khu dự trữ sinh quyển ven biển và biển đảo Kiên Giang là khu dự trữ sinh quyển thế giới.

Với diện tích hơn 1,1 triệu ha, khu dự trữ sinh quyển Kiên Giang là khu dự trữ sinh quyển lớn thứ 2 trong 6 khu dự trữ sinh quyển của Việt Nam đã được UNESCO công nhận khu dự trữ sinh quyển thế giới, chứa đựng sự phong phú, đa dạng và đặc sắc về cảnh quan và hệ sinh thái. Ta có thể thấy ở đây từ rừng tràm trên đất ngập nước, rừng trên núi đá – núi đá vôi đến hệ sinh thái biển mà trong đó tiêu biểu là thảm cỏ biển gắn liền với loài động vật quý hiếm là bò biển… Như vậy, đây là khu dự trữ sinh quyển thứ 5 của Việt Nam được UNESCO công nhận. Nó là khu dự trữ sinh quyển có diện tích lớn nhất trong 5 khu dự trữ sinh quyển trước đó của Việt Nam và cũng là lớn nhất trong ASEAN.

Khu dự trữ sinh quyển Kiên Giang bao gồm các địa phận các huyện Phú Quốc, An Minh, Vĩnh Thuận, Kiên Lương và Kiên Hải. Trong đó có 3 khu chính là Vườn quốc gia U Minh Thượng, VQG Phú Quốc, và Rừng phòng hộ ven biển Kiên Lương – Kiên Hải.

6. Khu dự trữ sinh quyển miền Tây Nghệ An

Khu dự trữ sinh quyển miền Tây Nghệ An là khu dự trữ sinh quyển thứ 6 của Việt Nam được UNESCO công nhận vào tháng 9/2007 với trung tâm là Vườn quốc gia Pù Mát

Khu dự trữ sinh quyển miền Tây Nghệ An là khu dự trữ sinh quyển có diện tích lớn nhất khu vực Đông Nam Á với tổng diện tích 1.303.285ha, thuộc địa bàn 9 huyện: Kỳ Sơn, Tương Dương, Con Cuông, Thanh Chương, Quỳ Hợp, Quỳ Châu, Quế Phong, Tân Kỳ, Anh Sơn; trong đó Vườn quốc gia Pù Mát làm trung tâm đang lưu giữ nhiều nguồn gen quý về động, thực vật với đầy đủ đại diện của 4/5 lớp quần hệ (rừng thưa, rừng kín, cây bụi và cây thảo). Nhưng trong đó 3 vùng cốt lõi :

– Vườn quốc gia Pù Mát
– Khu bảo tồn thiên nhiên Pù Huống
– Khu bảo tồn thiên nhiên Pù Hoạt

3 khu này tạo nên sự liên tục về các sinh cảnh duy trì hiệu quả bảo tồn đa dạng sinh học thông qua việc giảm bớt khó khăn về chia cắt nơi sống do các hoạt động kinh tế của con người tạo ra.

7. Khu dự trữ sinh quyển Mũi Cà Mau

Tại kỳ họp thứ 21, Ủy ban Điều phối quốc tế chương trình con người và sinh quyển thế giới (MAB) trực thuộc Ủy ban UNESCO (diễn ra từ ngày 25 đến 29-5- 2009 tại Jeju, Hàn Quốc), đã chính thức đưa Cù Lao Chàm – Hội An (Quảng Nam) và Mũi Cà Mau (Cà Mau) vào danh sách khu dự trữ sinh quyển thế giới. Đây cũng là địa danh được công nhận là khu du lịch quốc gia bởi lẻ tại Mũi Cà Mau là cột mốc toạ độ quốc gia.

Khu dự trữ sinh quyển Mũi Cà Mau có diện tích 371.506 ha với 3 vùng: Vùng lõi 17.329ha, vùng đệm 43.309ha và vùng chuyển tiếp 310.868ha. Tại vùng lõi được chia làm 3 vùng nhỏ là các phân khu bảo vệ nghiêm ngặt của Vườn quốc gia Mũi Cà Mau, Vườn quốc gia U Minh Hạ và dãy phòng hộ ven Biển Tây. Nơi đây có nhiều hệ sinh thái đặc trưng điển hình như: Hệ sinh thái rừng ngập mặn, hệ sinh thái rừng tràm trên đất ngập nước than bùn, hệ sinh thái biển… mỗi hệ sinh thái đều lưu giữ các nguồn tài nguyên sinh vật, tài nguyên địa chất phong phú có giá trị bảo tồn cao.

Vùng Mũi Cà Mau có 4 đặc trưng sinh thái chính:

– Hệ thống nguyên sinh trên đất bãi bồi
– Hệ thống chuyển tiếp các hệ sinh thái đặc trưng từ rừng ngập mặn sang rừng tràm ngập nước ngọt theo mùa
– Là vùng bãi đẻ và nuôi dưỡng con giống các loài thuỷ hải sản cung cấp cho các vùng biển cả nước
– Những dấu tích cư dân đầu tiên trên vùng cực nam tổ quốc.

8. Khu dự trữ sinh quyển – Cù lao Chàm

Tháng 10 năm 2003, Khu Bảo tồn thiên nhiên Cù Lao Chàm được thành lập để giữ gìn sinh vật hoang dã trên đảo, là 1 trong 15 Khu Bảo tồn biển của Việt Nam vào thời điểm 2007.

Cù lao Chàm là một cụm đảo xã đảo Tân Hiệp, thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam, nằm cách bờ biển Cửa Đại 15 km. Cù lao Chàm bao gồm 8 đảo: Hòn Lao, Hòn Dài, Hòn Mồ, Hòn Khô mẹ, Hòn Khô con, Hòn Lá, Hòn Tai, Hòn Ông…

Cù lao Chàm là một di tích văn hoá lịch sử gắn với sự hình thành và phát triển của đô thị thương cảng Hội An. Bản đồ “Tây Phương” xưa ghi là Cù lao Chàm tên là “Champello” lấy từ tiếng Nam Ấn “Pulau Champa”. Tại đây còn nhiều di tích thuộc các nền văn hoá Sa Huỳnh, Chăm Pa, Đại Việt, với các công trình kiến trúc cổ của người Chăm và người Việt có niên đại vài trăm năm.

Đây còn là một địa điểm du lịch có khí hậu quanh năm mát mẻ, hệ động thực vật phong phú, đặc biệt là nguồn hải sản và nguồn tài nguyên yến sào. Các rặng san hô ở khu vực biển cù lao Chàm cũng được các nhà khoa học đánh giá cao và đưa vào danh sách bảo vệ.

Ngày 29/5/2009, Cù Lao Chàm (Hội An) được UNESCO công nhận là khu dự trữ sinh quyển thế giới tại Việt Nam.

9. Khu dự trữ sinh quyển – Lang Biang

Tại Kỳ họp lần thứ 27, ngày 9/6/2015. Hội đồng Quốc tế Chương trình Con người và Sinh quyển của UNESCO, đã công nhận là Lang Biang là Khu Dự trữ Sinh Thế giới tại Việt Nam, đưa tổng số Khu Dự trữ Sinh quyển Thế giới tại Việt Nam lên con số 9. Đây còn là Khu Dự trữ Sinh quyển Thế giới đầu tiên tại miền đất Tây Nguyên hùng vĩ.

Khu Dự trữ Sinh quyển thế giới Lang Biang có diện tích 275.439 ha nằm ở phía bắc tỉnh Lâm Đồng, thuộc khu vực Nam Tây Nguyên và được đặt tên theo ngọn núi Lang Biang. Khu Dự trữ Sinh quyển bao gồm một vùng rừng nguyên sinh rộng lớn với vùng lõi là Vườn quốc gia Bidoup Núi Bà (cũng thuộc tỉnh Lâm Đồng, nơi được đánh giá là một trong bốn trung tâm đa dạng sinh học của Việt Nam). Các nhà khoa học đã ghi nhận khu vực này có 153 loài động thực vật nằm trong sách đỏ Việt Nam (2007) và 154 loài có tên trongdanh Lục Đỏ IUCN (2010). Cơ quan bảo vệ động vật hoang dã thế giới (WWF) cũng đã xác định nơi đây là khu vực ưu tiên bảo tồn số 1 (Khu vực SA3) trong chương trình bảo tồn các dãy núi chính Nam Trường Sơn của Việt Nam.

Việc Khu Dự trữ Sinh quyển Thế giới Lang Biang được UNESCO công nhận sẽ giúp Lâm Đồng tiếp tục phát triển hệ sinh thái bền vững và khẳng định thế mạnh về thiên nhiên của vùng đất này nhằm thu hút khách du lịch Đà Lạt.

S.T

Bạn đang đọc bài viết Tổng quan về 9 khu dự trữ sinh quyển thế giới ở Việt Nam. Thông tin phản ánh, liên hệ đường dây nóng : 0912 345 014 Hoặc email: [email protected]

Cùng chuyên mục

“Thành phố xanh” Freiburg
Thành phố Freiburg của Đức được coi là “Thành phố năng lượng mặt trời” hay “Thành phố xanh” của châu Âu, được biết đến với các chính sách môi trường ấn tượng và nguồn năng lượng mặt trời dồi dào.

Tin mới

Mỗi ngày nên đi bộ bao nhiêu bước để duy trì sức khỏe?
Cuộc sống ngày nay thường bận rộn và nhiều người dường như không có đủ thời gian để tập luyện hoặc tham gia các hoạt động thể thao phức tạp. Tuy nhiên, đi bộ lại là một hoạt động vận động đơn giản, dễ dàng tích hợp vào lịch trình hàng ngày.
“Thành phố xanh” Freiburg
Thành phố Freiburg của Đức được coi là “Thành phố năng lượng mặt trời” hay “Thành phố xanh” của châu Âu, được biết đến với các chính sách môi trường ấn tượng và nguồn năng lượng mặt trời dồi dào.