Thứ ba, 16/04/2024 20:50 (GMT+7)

Tranh chấp QSDĐ tại Nhơn Trạch, Đồng Nai: Viện KSND đề nghị làm rõ

MTĐT -  Thứ tư, 25/04/2018 15:44 (GMT+7)

Theo dõi MTĐT trên

Trong đơn khởi kiện, các nguyên đơn yêu cầu bị đơn phải trả lại 803m2 đất nhưng sau đó nâng lên 1.000m2, rồi 1.134m2, cuối cùng là 1.136m2 thuộc thửa 91 tờ bản đồ số 38 xã Phước An...

Mặc dù còn nhiều khúc mắc nhưng Tòa án vẫn đưa ra xét xử và tuyên nguyên đơn thắng kiện gây nhiều thắc mắc trong dư luận người dân ở địa phương.

Nguồn gốc đất tranh chấp

Theo các nguyên đơn ông Dương Văn Hết, bà Dương Thị Tứ, ông Dương Văn Đúng, ông Mai Thuận Nhĩ, phần đất diện tích 1.136m2 thuộc thửa 52a, tờ bản đồ số 96 (thửa cũ số 91, tờ bản đồ số 38), xã Phước An, huyện Nhơn Trạch, có nguồn gốc là của ông Đúng, ông Hết khai phá, mỗi người một phần đất để cấy lúa và trồng điều.

Phần đất tranh chấp.

Bà Tứ - ông Nhĩ, khai phá để làm quán giải khát và có một phần nhận chuyển nhượng của ông Huỳnh Văn Khích. Hiện nay, phần đất tranh chấp đã được UBND huyện Nhơn Trạch cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (QSDĐ) cho hộ ông Hết- bà Hiệp. Năm 2003, UBND huyện Nhơn Trạch có đợt rà soát lại đất tồn đọng ở xã Phước An, các nguyên đơn cắm mốc xác định ranh giới thì ông Nguyễn Văn Bên ngăn cản nên phát sinh tranh chấp. Từ đó đến nay, đất bỏ hoang, không ai quản lý, sử dụng.

Các nguyên đơn yêu cầu ông Bên trả lại diện tích 1.136m2 thuộc thửa 52a, tờ bản đồ số 96 xã Phước An và công nhận cho các nguyên đơn được quyền quản lý, sử dụng. Các nguyên đơn sẽ tự thỏa thuận chia phần cho mỗi người mà không yêu cầu Tòa án xem xét.Hiện

 Trên đất có một ngôi mộ ông Nguyễn Văn Còn (cha bà Nguyễn Thị Nữa) các nguyên đơn và bà Nữa sẽ tự thỏa thuận về việc mở lối đi cho bà Nữa vào thăm viếng. Đối với các ngôi mộ của ông Phan Văn Đê, bà Nguyễn Thị Thọ, bà Nguyễn Thị Hàng Anh, có phần sân nền được ông Phan Ngọc Hiệp xây dựng lấn trên phần đất tranh chấp, đề nghị tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Ông Nguyễn Văn Bên, là bị đơn, cho biết: Phần đất diện tích 1.136m2 thuộc thửa 52a, tờ bản đồ 96 có nguồn gốc là của ông bà khai phá trước năm 1975. Sau năm 1975, vợ chồng ông Bên phục hóa lại để làm đất thổ mộ riêng cho gia tộc.

Trong quá trình quản lý, sử dụng, bà nội ông Bên là cụ Huỳnh Thị Hai, được UBND huyện Long Thành cấp Giấy chứng nhận ruộng đất tạm thời ngày 15/10/1982, diện tích 0,3ha đất thổ mộ nhưng không thể hiện vị trí và ranh giới thửa đất. Từ năm 1982, ông Bên trực tiếp quản lý đất thổ mộ trên.

Năm 1994, bà Tứ có mượn ông Bên một phần đất 30m2, để dựng một căn nhà lá, buôn bán nhỏ. Do bà Tứ vứt rác bừa bãi và tự ý để em là ông Hết, trồng thêm cây cối, chiếm đất nên tháng 2/1998, ông Bên yêu cầu chị em bà Tứ trả lại đất. Trên phần đất có 4 ngôi mộ, năm 1994, ông Bên di dời 3 ngôi mộ của cụ Nguyễn Văn Bồi (ông nội ông Bên), cụ Nguyễn Văn Cơ (anh ruột ông Bồi), cụ Nguyễn Văn Đáp (cha ruột ông Bên) vào phía trong cách 50m, hiện chỉ còn mộ của cụ Nguyễn Văn Còn.

Vì là đất thổ mộ nên ông Bên không kê khai nộp thuế, số cây xà cừ trên đất hiện nay do ông trồng sau khi xảy ra tranh chấp. Năm 2003, bà Tứ cắm cọc phân ranh trên diện tích 1.136m2 nên phát sinh tranh chấp. Các nguyên đơn cho rằng phần đất 1.136m2 nằm trong diện tích 2.745m2 thửa số 91, tờ bản đồ số 38 (bản đồ địa chính cũ) xã Phước An mà UBND huyện Nhơn Trạch cấp Giấy chứng nhận QSDĐ cho hộ ông Hết là không đúng, vì đất này chưa có ai được cấp Giấy chứng nhận QSDĐ. Nay, nguyên đơn yêu cầu ông Bên giao diện tích 1.136m2 thửa 52a, tờ bản đồ 96 là không có căn cứ.

Văn bản xác định diện tích đất tranh chấp là 803m2

Tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ tranh chấp quyền sử dụng đất ngày 28/9/1997, đại diện Viện KSND huyện Nhơn Trạch, phát biểu ý kiến chỉ rõ Tòa án chưa thu thập đầy đủ chứng cứ, cụ thể:

Chưa chồng ghép bản đồ để xác định vị trí phần đất tranh chấp có nằm trong phần đất đã cấp Giấy chứng nhận QSDĐ cho hộ ông Hết hay không?

Chưa làm rõ phần đất 0,3ha cấp Giấy chứng nhận ruộng đất tạm thời cho cụ Huỳnh Thị Hai hiện nay có ông Bên quản lý hay không. Nếu ông Bên đang quản lý phần đất này thì diện tích thực tế là bao nhiêu?

Chưa tiến hành thu thập bản vẽ của phần đất này và chồng ghép để xác định phần đất tranh chấp có nằm trong phần đất 0,3ha đã được cấp Giấy chứng nhận ruộng đất tạm thời cho cụ Hai hay không ?

Chưa thu thập bản vẽ diện tích đất còn lại của thửa số 91 tờ bản đồ 38 (thửa mới số 52, tờ bản đồ số 96) xã Phước An và chồng ghép bản đồ để xác định phần đất này có bao gồm diện tích đất tranh chấp hay không. Chưa tiến hành xác minh để làm rõ phần đất còn lại hiện nay đã được cấp Giấy chứng nhận QSDĐ cho ai hay chưa. Diện tích được cấp Giấy chứng nhận QSDĐ là bao nhiêu?

Mặc dù chưa làm rõ các nội dung nêu trên để có cơ sở giải quyết vụ án nhưng Hội đồng xét xử (HĐXX) vẫn xác định nguồn gốc đất tranh chấp là đất hoang hóa, do các nguyên đơn khai phá và trực tiếp quản lý, sử dụng, là có cơ sở. Từ đó, HĐXX tuyên chấp nhận yêu cầu khởi kiện, công nhận cho các nguyên đơn được quyền quản lý, sử dụng diện tích 1.136m2 đất thuộc thửa 52a, tờ bản đồ 96, xã Phước An, huyện Nhơn Trạch. Vụ án không được sự đồng tình của người dân địa phương.

Không xem xét lời khai của nhân chứng.

Tại Biên bản lấy lời khai ngày 31/12/2014 của TAND huyện Nhơn Trạch, ông Nguyễn Văn Lức, sinh năm 1938, khai: Khi ông Nguyễn Văn Bồi (ông nội ông Bên) chết, ông Lức có đi dự đám tang chôn cất trên phần đất hiện nay đang tranh chấp, diện tích 1,136m2. Vị trí chôn cất ông Bồi cách lề đường Hương lộ 19 cũ khoảng 15m.

Tại thời điểm chôn cất ông Bồi thì đất đã có nhiều ngôi mộ lớn, nhỏ nhưng không có bia mộ, trong đó có ngôi mộ của ông Nguyễn Văn Cơ (anh ruột ông Bồi). Năm 1970, ông Nguyễn Văn Đáp (cha ông Bên) hy sinh và đến năm 1975, gia đình ông Bên di dời về gần phần mộ của ông bác ruột ông Bồi. Phần diện tích 1.130m2, là của gia đình ông Bên sử dụng để chôn cất gia tộc. Do đó, ông Nhĩ, ông Hết, ông Dũng, bà Tứ buộc ông Bên trả lại diện tích trên là không phù hợp. Lời khai của ông Lức rất rõ ràng, rất cụ thể nhưng không được HĐXX xem xét !?

Ông Nguyễn Văn Bên bức xúc cho biết, có nhiều tình tiết quan trọng của vụ án chưa được HĐXX tập trung làm rõ:

Giấy chứng nhận QSDĐ số L064258 do UBND huyện Nhơn Trạch cấp, có dấu hiệu không hợp pháp và nguyên đơn không cung cấp được bản chính. Trong hồ sơ vụ án chỉ có bản photo do Tòa án thu thập và giấy này chỉ mang tên ông Dương Văn Hết. Giấy chứng nhận QSDĐ ghi vị trí, diện tích khác biệt vị trí thửa đất đang tranh chấp và không có hồ sơ gốc.

Trong Biên bản ghi lời khai ngày 25/10/ 2011, ông Dương Văn Đúng khai diện tích đất 1.134m2 thuộc một phần thửa 59 tờ bản đồ số 38 cũ (thửa 52 tờ bản đồ 96 mới) xã Phước An, đang tranh chấp chưa có Giấy chứng nhận QSDĐ hay một trong các loại giấy tờ quy định tại Khoản 1,2,5 Điều 50 Luật Đất đai năm 2003.

Văn bản số 1259/UBND-NC ngày 17/6/2011 của UBND huyện Nhơn Trạch xác định diện tích 1.134m2 thuộc một phần thửa số 91 tờ bản đồ số 38 cũ (thửa 52 tờ bản đồ 96 mới, xã Phước An, chế độ cũ không cấp chủ quyền cho ai và UBND huyện Nhơn Trạch chưa cấp Giấy chứng nhận QSDĐ cho cá nhân, tổ chức nào. Tuy nhiên, Tòa án lại thu thập được Giấy chứng nhận QSDĐ số L 064258 do UBND huyện Nhơn Trạch cấp ngày 9/4/1999 !?

Các nguyên trình bày mỗi người khai phá một phần đất để sử dụng nhưng không xác định được từng phần đất của mỗi người sử dụng và không đăng ký kê khai theo quy định. Khi tranh chấp thì khai nhận cùng sử dụng chung phần đất tranh chấp và chỉ duy nhất ông Hết được cấp Giấy chứng nhận QSDĐ !?

Tại Văn bản số 23/TA-VP ngày 23/12/2010 của TAND huyện Nhơn Trạch, xác định không đúng diện tích đất tranh chấp và đối tượng tranh chấp, vì trong đơn khởi kiện xác định phần đất tranh chấp là 803m2 nhưng Tòa án lại xác định diện tích tranh chấp là 1.000m2 và trong biên bản ghi lời khai ngày 25/10/2011, xác định diện tích là 1.134m2!?

Đối với Giấy chứng nhận ruộng đất tạm thời cấp ngày 15/10/1982 cho cụ Huỳnh Thị Hai theo đúng quy định pháp luật về đất đai và ông Bên trực tiếp canh tác, quản lý sử dụng phần đất này nhưng Tòa án không xem xét, trong khi các nguyên đơn không có bất kỳ loại giấy tờ nào liên quan đến thửa đất, không đăng ký kê khai, không trực tiếp quản lý, sử dụng ...lại được HĐXX chấp nhận yêu cầu khởi kiện.

Rõ ràng, bản án số 63/2017/DS-ST ngày 28/9/2017 của TAND huyện Nhơn Trạch, áp dụng không đúng quy phạm pháp luật, không phù hợp với các tình tiết khách quan của vụ án, có nhiều mâu thuẫn giữa nhận định và quyết định trong bản án. Vì vậy, ông Nguyễn Văn Bên có đơn kháng cáo, đề nghị Tòa phúc thẩm xem xét lại toàn bộ bản án sơ thẩm của TAND huyện Nhơn Trạch, tuyên bác yêu cẩu khởi kiện tranh chấp quyền sử dụng đất của các nguyên đơn, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng, hợp pháp của ông Nguyễn Văn Bên. 

Bạn đang đọc bài viết Tranh chấp QSDĐ tại Nhơn Trạch, Đồng Nai: Viện KSND đề nghị làm rõ. Thông tin phản ánh, liên hệ đường dây nóng : 0912 345 014 Hoặc email: [email protected]

Minh Yến- Thế Bôn

Cùng chuyên mục

Đồng Nai: Nhà hàng Purli xây dựng trái phép giữa rừng cao su
Theo phản ánh của nhiều người dân, Nhà hàng – hầm rượu Purli (ấp Trần Cao Vân, xã Bàu Hàm 2, huyện Thống Nhất) xây dựng trái phép trên đất trồng cây lâu năm và đi vào hoạt động từ nhiều năm nay. Tuy nhiên, chính quyền địa phương lại không hay biết.

Tin mới

Nước lọc có hạn sử dụng không?
Nước uống đóng chai được nhiều người thường xuyên sử dụng vì tính tiện lợi, vệ sinh, dễ dàng mua được ở bất cứ đâu. Tuy nhiên, nhiều người thường không chú ý đến cách bảo quản và hạn sử dụng của nước uống đóng chai.