Thứ sáu, 29/03/2024 16:50 (GMT+7)

Quản lý bùn thải từ hệ thống thoát nước và các công trình vệ sinh

MTĐT -  Thứ tư, 03/04/2019 13:27 (GMT+7)

Theo dõi MTĐT trên

Bài viết khái quát những thách thức và đề xuất các giải pháp góp phần giảm thiểu những khó khăn vướng mắc trong quản lý chất thải nói chung và chất thải từ HTTN và các công trình vệ sinh nói riêng.

Tóm tắt: Hiện nay, việc thu gom, vận chuyển, xử lý, tái chế, tái sử dụng chất thải đặc biệt bùn thải từ hệ thống thoát nước  và các công trình vệ sinh trong đô thị đã, đang trở thành bài toán khó đối với các nhà quản lý ở hầu hết các nước trên thế giới, đặc biệt ở các nước có nền kinh tế đang phát triển trong đó có Việt Nam. Bài viết khái quát những thách thức và đề xuất các giải pháp góp phần giảm thiểu những khó khăn vướng mắc trong quản lý chất thải nói chung và chất thải từ HTTN và các công trình vệ sinh nói riêng.

I. Những cơ hội và thách thức

1. Tốc độ đô thị hóa nhanh và sự phát triển nhanh chóng của các đô thị vừa là cơ hội vừa là thách thức đối với các cơ sở hạ tầng kỹ thuật đô thị nói chung đặc biệt hệ thống thoát nước (HTTN) và vệ sinh môi trường đô thị.

Theo báo cáo của Bộ Xây dựng, đến năm 2018, hệ thống đô thị Việt Nam có khoảng 819 đô thị, trong đó có 2 đô thị đặc biệt, 19 đô thị loại I, 23 đô thị loại II, 45 đô thị loại III, 84 đô thị loại IV và còn lại là đô thị loại V.  Tỷ lệ đô thị hóa trung bình cả nước đạt khoảng trên 37,8%. Với sự phát triển nhanh chóng của khu vực đô thị đã góp phần làm cho việc thoát nước, chống ngập đô thị ngày càng nan giải. Tình trạng ngập úng đô thị ở rất nhiều nơi, nước thải chưa qua xử lý xả thẳng ra nguồn tiếp nhận gây ô nhiễm môi trường, ô nhiễm nguồn nước cấp cho sinh hoạt. Hầu hết các đô thị đã có mạng lưới thu gom nước chung (nước mưa và nước thải) nhưng mạng lưới này đã, đang bị xuống cấp, khả năng thu gom và tiêu thoát còn nhiều hạn chế và đến nay cũng chỉ có khoảng trên 50% địa phương có trạm/nhà máy xử lý nước thải (XLNT) tập trung  với các quy mô khác nhau và sử dụng công nghệ XLNT cũng khác nhau đã và đang đưa vào vận hành khai thác.

Tại các đô thị Việt Nam hiện nay, hầu hết các hộ gia đình sử dụng hệ thống vệ sinh tại chỗ và chủ yếu là các bể tự hoại, một số khu vực và đường phố có bố trí các nhà vệ sinh công cộng. Phần lớn nước thải được xả vào HTTN công cộng, còn bùn thải từ các công trình vệ sinh và cả từ mạng lưới đường ống thoát nước được thông hút/nạo vét, thu gom và vận chuyển chưa qua xử lý đổ thẳng ra mương, hồ hoặc bãi chôn lấp cùng với các loại rác thải đô thị. Bên cạnh đó việc quản lý bùn thải từ các công trình này chưa được quan tâm đúng mức và hiện nay chưa có đô thị nào có biện pháp quản lý và xử lý phù hợp.

Quy hoạch đô thị, quy hoạch thoát nước và quy hoạch xử lý chất thải chưa thực sự quan tâm đến việc thu gom, vận chuyển cũng như việc xác định các vị trí, địa điểm xử lý bùn thải từ HTTN và các công trình vệ sinh.

Cho đến nay 60/63 tỉnh đã phê duyệt quy hoạch xây dựng vùng tỉnh; 100% đô thị có quy hoạch chung được duyệt; gần 95% số xã có quy hoạch xây dựng nông thôn mới. Các thành phố trực thuộc Trung ương đã và đang lập quy hoạch xây dựng chuyên ngành về thoát nước và xử lý chất thải rắn (CTR); quy hoạch thoát nước và xử lý CTR của 4 vùng kinh tế trọng điểm (Bắc Bộ, Trung bộ, Đông Nam Bộ và vùng Đồng bằng sông Cửu Long) và 3 vùng lưu vực sông (sông Cầu; sông Nhuệ - Đáy và sông Đồng Nai) cũng đã lập và được phê duyệt. Tuy nhiên, việc tổng hợp, phân tích và đánh giá hiện trạng về khối lượng bùn thải, công tác thu gom, vận chuyển; dự báo khối lượng bùn thải phát sinh từ HTTN và công trình vệ sinh còn thiếu... Việc xác định vị trí, quy mô và địa điểm xử lý bùn thải hầu như chưa có và nếu có cũng chưa kết hợp với việc xử lý CTR; công nghệ xử lý chưa được khuyến cáo trong các quy hoạch. Đồng thời, thiếu quy hoạch các khu vực đổ, xả và xử lý đang là những khó khăn trong thực tế triển khai.

2. Về thu gom, vận chuyển bùn thải từ HTTN và công trình vệ sinh

Bùn thải được phân thành 3 loại chủ yếu theo nguồn gốc phát sinh gồm (1) bùn từ hệ thống thoát nước đô thị (được nạo vét từ các kênh, rạch, mương, rãnh hoặc sông, hồ theo định kỳ); (2) bùn từ các nhà máy xử lý nước thải và (3) bùn bể tự hoại (phần lớn từ các hộ gia đình, công sở sử dụng hệ thống vệ sinh tại chỗ, hay trên một số đường phố, khu vực có bố trí các nhà vệ sinh công cộng). Thành phần của các loại bùn thải rất khác nhau, ví dụ bùn thải từ mạng lưới thoát nước và bùn nạo vét kênh rạch chứa chủ yếu là cát và đất trong khi bùn thải từ các trạm/nhà máy XLNT và từ bể tự hoại chứa chủ yếu là các chất hữu cơ. Hiện nay, bùn thải từ hoạt động nạo vét cống rãnh, kênh rạch và bùn bể tự hoại được vận chuyển bằng xe chuyên dụng và xà lan (bùn nạo vét kênh rạch). Bùn thải từ các trạm/nhà máy XLNT sinh hoạt/đô thị tập trung sau khi tách nước (làm khô) được vận chuyển đến các bãi chôn lấp.

Công tác nạo vét bùn từ mạng lưới thoát nước nhiều đô thị vừa và nhỏ vẫn còn sử dụng phương pháp thủ công, nhiều đô thị lớn bước đầu sử dụng cơ giới hóa. Phương pháp thủ công có năng suất thấp, không an toàn và gây nguy hại đến sức khỏe công nhân thoát nước. Do đặc điểm các đô thị Việt Nam là đô thị cũ, đô thị cải tạo và mở rộng; cơ sở hạ tầng kỹ thuật còn hạn chế trong khi mật độ dân số cao. Việc thông hút, vận tải bùn từ bể tự hoại của các hộ dân cực kỳ khó khăn (khó tiếp cận) mặt khác phương tiện hút và vận chuyển cũ, thiếu thốn không đảm bảo vệ sinh môi trường và không phù hợp với điều kiện hạ tầng kỹ thuật.

3. Về khối lượng bùn thải và tỷ lệ thu gom:

- Lượng bùn thải phát sinh từ mạng lưới thoát nước giữa các đô thị rất khác nhau, dao động từ 15.000-245.000 m3/năm, tùy thuộc vào quy mô đô thị và cấu trúc mạng lưới thoát nước. Hai đô thị có lượng bùn thải lớn nhất là TP Hồ Chí Minh và Hà Nội, vì địa bàn rộng, nhiều kênh mương, sông hồ và chiều dài các tuyến cống lớn. Lượng bùn phát sinh trong khoảng từ 3.6-293.8 l/người/năm, trung bình là 45.5 l/người/năm, trong đó lượng bùn phát sinh theo đầu người cao nhất là thành phố Vũng Tàu (293.8 l/người/năm). Như vậy lượng bùn thải từ hệ thống cống thoát nước giữa các đô thị và tính cho từng đầu người tại các đô thị có sự khác biệt rõ rệt.

- Lượng bùn thải từ các nhà máy XLNT: Bùn thải từ hệ thống xử lý nước thải được phân loại là chất thải nguy hại hay chất thải thông thường tùy thuộc vào thành phần, tính chất của bùn. Khi đã được phân loại với thành phần và tính chất rõ ràng, loại bùn thải này được thu gom, vận chuyển và xử lý theo phương thức phù hợp.

Tại Thành phố Hồ Chí Minh, tính đến năm 2015, trên địa bàn thành phố khối lượng bùn thải phát sinh từ các nhà máy XLNT được thu gom: Trạm XLNT Tân Quy Đông với công suất 500 m3/ngày đêm; nhà máy XLNT Bình Hưng Hòa với công suất 30.000 m3/ngày đêm; nhà máy XLNT Bình Hưng có công suất 141.000 m3/ngày đêm. Khối lượng bùn thải phát sinh từ các nhà máy/trạm XLNT này khoảng 40 m3/ngày.

Tại Thành phố Hà Nội, tại thời điểm năm 2015, với tổng công suất thực tế của 4 trạm XLNT (Kim Liên, Trúc Bạch, Bắc Thăng Long - Vân Trì và Yên Sở) là 120 m3/ngày đêm, lượng bùn theo trọng lượng cặn khô thu được khoảng trên 10 tấn/ngày, với thể tích bùn chưa xử lý là 350 m3/ngày.

H1.Bùn thải từ nhà máy xử lý nước thải.

- Bùn thải từ các công trình vệ sinh (bể tự hoại): Theo số liệu của Cục Hạ tầng kỹ thuật, Bộ Xây dựng (2017), lượng bùn thải từ bể tự hoại tại các đô thị dao động từ vài trăm m3/năm đến trên 200.000 m3/năm. Tuy nhiên lượng bùn thu gom cũng rất hạn chế, tỷ lệ thu gom có biên độ dao động lớn, từ 3% đến 97%, tỷ lệ thu gom trung bình chỉ đạt khoảng 32%. Lượng bùn bể tự hoại được thu gom có thể lớn hơn do có nhiều doanh nghiệp, đơn vị cung cấp dịch vụ hút bùn bể tự hoại ở quy mô nhỏ lẻ.  Số liệu về hoạt động của nhóm này khó cập nhật do các đơn vị này không tham gia trong các hiệp hội hoặc có sự quản lý chặt chẽ của cơ quan quản lý nhà nước.

4. Về công nghệ xử lý bùn thải

Khối lượng phát sinh, thành phần và tính chất của bùn từ các hệ thống thu gom và xử lý nước thải rất khác nhau. Do đó, dựa trên tính chất của các điều kiện cụ thể, các phương pháp xử lý có thể là một trong hoặc kết hợp các phương pháp như sau: cô đặc, tách nước, phân hủy, ổn định, ủ, đốt, phơi khô và hóa rắn với mục đích giảm thể tích, thu hồi metan/năng lượng, làm phân hữu cơ hoặc sản xuất vật liệu xây dựng.

Việc xử lý kết hợp bùn thải từ bể tự hoại với bùn thải từ HTTN được thực hiện ở một số nước châu Á, châu Phi hoặc tại một số nước phát triển toàn bộ chất thải từ HTTN và các công trình vệ sinh được tập trung về nhà máy XLNT để xử lý. Tuy nhiên, việc xây dựng và vận hành HTXL này tốn kém và yêu cầu trình độ quản lý cao. Ở Việt Nam bước đầu đã áp dụng một số công nghệ xử lý bùn thải chi phí thấp. Nhiều sản phẩm được sản xuất ra từ bùn thải được sử dụng làm vật liệu xây dựng, sử dụng trong nông nghiệp, ngoài ra việc tái sử dụng bùn thải nhằm tiết kiệm năng lượng... Tuy nhiên, việc lựa chọn công nghệ cho phù hợp, đáp ứng các yêu cầu theo tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật hiện đang còn để ngỏ.

5. Đầu tư xây dựng, triển khai các dự án

Trong những năm gần đây nhiều dự án đầu tư xây dựng nhà máy XLNT tại nhiều đô thị đã hoàn thành và đi vào hoạt động. Đến nay đã có 46-48 nhà máy xử lý nước tập trung với công suất đạt hơn 1.000.000 m3/ngày/đêm đi vào hoạt động (trong đó có nhà máy với công suất rất lớn đã đi vào hoạt động như nhà máy XLNT Bình Hưng - TP.HCM công suất 141.000 m3/ngày/đêm hoặc nhà máy XLNT tại Yên Sở - Hà Nội, công suất 200.000 m3/ngày/đêm).  Dự kiến đến năm 2020 sẽ có khoảng hơn 21 nhà máy XLNT tập trung được đầu tư xây dựng . Việc quan tâm đầu tư nhà máy XLNT cùng với mạng lưới thu gom nước thải tại các đô thị đã góp phần giảm ô nhiễm nguồn nước và ô nhiễm môi trường...Tuy nhiên, việc đầu tư chủ yếu tập trung vào công trình đầu mối (trạm/nhà máy XLNT), trong khi xây dựng mạng thu gom còn chậm. Phần lớn các dự án thiếu phần đầu tư cho việc thu gom, xử lý bùn. Ví dụ, Nhà máy XLNT công suất 141.000 m3/ngày/đêm tại Bình Hưng, TP. Hồ Chí Minh với lượng bùn cạn phát sinh khoảng 34 tấn/ngày chủ yếu thực hiện ủ lên men, trộn trấu và đem đi chôn lấp. Từ năm 2012 đến nay Nhà máy đã có nhiều nỗ lực để khắc phục mùi hôi, kết quả quan trắc nồng độ mùi hôi phát tán đạt tiêu chuẩn cho phép nhưng người dân phản ảnh vẫn còn mùi hôi...

Ngoài ra, nhiều dự án ODA, đã có nhiều nghiên cứu và ứng dụng thí điểm về xử lý bùn thải từ các công trình vệ sinh (bể tự hoại...) ở Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định, TP. Hồ Chí Minh thu được kết quả bước đầu, tuy nhiên việc nhân rộng hoặc duy trì kết quả còn nhiều hạn chế.

6. Quản lý nhà nước về bùn thải từ HTTN và công trình vệ sinh

Trong thời gian qua, một số văn bản quy phạm pháp luật đã được ban hành như Luật BVMT 2014 có hiệu lực từ 1/1/2015; các tiêu chuẩn, quy chuẩn môi trường và quy chuẩn xây dựng có liên quan đến việc phân loại và quản lý bùn thải bao gồm: QCVN 07: 2009/BTNMT – Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia (QCKTQG) về ngưỡng chất thải nguy hại, trong đó có những quy định được áp dụng với bùn thải; QCVN 25: 2009/BTNMT - QCKTQG về nước thải bãi chôn lấp CTR; QCVN 50:2013/BTNMT - QCKTQG về ngưỡng nguy hại đối với bùn thải từ quá trình xử lý nước; QCVN 07:2011/BXD - QCKTQG về hạ tầng kỹ thuật đô thị; TCVN 5298 - 1995: Các yêu cầu chung đối với việc sử dụng nước thải và bùn lắng của chúng để tưới và làm phân bón...

      Đặc biệt, Nghị định số 80/2014/NĐ-CP ngày 6/8/2014 của Chính phủ về Thoát nước và XLNT đã có một số điều quy định về quản lý bùn thải từ HTTN; quản lý bùn thải từ bể tự hoại cũng như các quy định về tái sử dụng bùn thải. Thông tư 04/2015/TT-BXD ngày 3/4/2015 Hướng dẫn thi hành một số điều của NĐ80/2014 đã quy định khá chi tiết và cụ thể hóa về quản lý bùn thải từ hệ thống thoát nước và quản lý bùn thải từ bể tự hoại. Đây là văn bản pháp lý quan trọng để quản lý lĩnh vực này.

Cơ quan quản lý nhà nước về lĩnh vực này đang được giao cho Bộ Xây dựng (quản lý thoát nước và xử lý nước thải đô thị) nhưng tại các địa phương chưa thống nhất và các doanh nghiệp cũng vậy (công ty môi trường, công ty TNHHMTV thoát nước hay Công ty CP Công trình đô thị….)

II. Đề xuất các giải pháp

Thứ nhất: Cần có các nghiên cứu tổng thể về quản lý bùn thải trong đó bao gồm: Điều tra, khảo sát tình hình quản lý bùn thải tại các địa phương; các cơ chế, chính sách ưu đãi, hỗ trợ đầu tư, tài chính; quản lý xây dựng; ứng dụng công nghệ mới; chỉ tiêu kinh tế, kỹ thuật; định mức đơn giá; các chi phí... đến tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật; sổ tay hướng dẫn thực hiện.

Thứ hai: Nghiên cứu bổ sung nội dung quản lý bùn thải trong các quy hoạch đô thị, quy hoạch tỉnh và các quy hoạch chuyên ngành hạ tầng kỹ thuật có liên quan.

Thứ ba: Nghiên cứu áp dụng công nghệ mới trong xử lý bùn thải hướng tới giảm tối đa việc chôn lấp kết hợp yếu tố môi trường, kinh tế và tiết kiệm năng lượng để đưa ra các công nghệ thích hợp mang lại hiệu quả kinh tế cao và bazro vệ môi trường.

Thứ tư: Xây dựng cơ sở dữ liệu về bùn thải: Điều tra, thu thập số liệu về bùn thải phát sinh trong đó làm rõ loại bùn thải cần phải xử lý; bùn thải có khả năng tái chế, tái sử dụng...

Thứ năm: Nghiên cứu xây dựng các chính sách huy động các nguồn lực tham gia đầu tư, quản lý vận hành việc thu gom, vận chuyển và xử lý bùn thải. Đẩy nhanh tiến độ xây dựng các cơ sở xử lý chất thải theo quy hoạch phê duyệt.

Thứ sáu: Thống nhất cơ quan quản lý nhà nước về bùn thải từ Trung ương đến địa phương.  Sắp xếp lại các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực này đảm bảo tổ chức bộ máy gọn nhẹ, trang thiết bị hiện đại, cơ động linh hoạt, hoạt động có hiệu quả với chi phí thấp.

Thứ bảy: Tăng cường công tác tuyên truyền giáo dục nâng cao nhận thức cộng đồng trong ý thức chấp hành các quy định về bảo vệ môi trường. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra.

Thứ tám: Mở rộng hợp tác quốc tế trong đầu tư, xây dựng, ứng dụng công nghệ và trao đổi học hỏi kinh nghiệm trong lĩnh vực quản lý bùn thải; đào tạo, nâng cao năng lực cho cán bộ các cấp trong quản lý bùn thải.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Quản lý bùn thải ở Việt Nam – Cơ hội để cải thiện, Kỷ yếu Hội nghị quốc tế về quản lý bùn thải từ hệ thống thoát nước và công trình vệ sinh tại Hà Nội 2015.

2. Cục Hạ tầng kỹ thuật, Bộ Xây dựng (2017), Báo cáo tổng hợp tình hình quản lý bùn thải tại một số đô thị ở Việt Nam

3. Báo cáo của một số Công ty Môi trường, Công ty TNHH MTV thoát nước đô thị.

4. Ngân hàng Thế giới. Đánh giá hoạt đông quản lý nước thải đô thị tại Việt Nam, 12/2013. 

PGS.TS.Nguyễn Hồng Tiến

Nguyên Cục trưởng Cục Hạ tầng kỹ thuật - Bộ Xây dựng

Bạn đang đọc bài viết Quản lý bùn thải từ hệ thống thoát nước và các công trình vệ sinh. Thông tin phản ánh, liên hệ đường dây nóng : 0912 345 014 Hoặc email: [email protected]

Cùng chuyên mục

Thái Nguyên: Tận dụng phế phẩm để chăn nuôi
Tận dụng nguồn thức ăn thừa tại các bếp ăn tập thể, hội viên Hội Chăn nuôi - Thú y tỉnh Thái Nguyên đã xử lý, chế biến để làm thức ăn trong chăn nuôi gia súc, gia cầm và thủy sản.
Bản đồ công nghệ cho chính phủ số
Bản đồ do Bộ Thông tin và Truyền thông xây dựng nhằm đánh giá các công nghệ có tác động đáng kể đến quá trình chuyển đổi số của chính phủ.

Tin mới

Bài thơ: Giấc mơ Hồng
Đêm qua, em có giấc mơ hồng///Được gặp anh ở cuối trời Tây///Vẫn dõi theo từng hơi thở, từng bước đi///Gửi đến bao tình thương và nỗi nhớ
Bài thơ: Chút tương tư
Thả câu thơ đêm muộn màng///Ngọn đèn bên phố trôi ngang bềnh bồng //Đêm gầy uống cạn dòng sông//Buồn ơi! Xuân hết mà đông chưa tàn.