Thứ ba, 23/04/2024 13:05 (GMT+7)

Đổi mới giáo dục, đừng để “nước đến chân mới nhảy”!

Trần Ngọc Tuấn -  Thứ hai, 19/08/2019 13:58 (GMT+7)

Theo dõi MTĐT trên

Để thay đổi toàn bộ chương trình giáo dục phổ thông cũ và đưa vào áp dụng chương trình giáo dục phổ thông mới không thể không có sự chuẩn bị kỹ càng về hoạch định, giải pháp, nhân lực…

Đã sẵn sàng…

Vào cuối năm 2018 vừa qua, Bộ GD-ĐT đã chính thức công bố Chương trình giáo dục phổ thông mới sau một thời gian dài chuẩn bị dự thảo và lấy ý kiến đóng góp của xã hội.

Có thể thấy, chương trình đã kết tinh nhiệt huyết, trí tuệ và tầm nhìn của những người hữu trách muốn “lột xác” cho giáo dục VN - một nền giáo dục bấy lấu nay bị đánh giá là còn nhiều lạc hậu, bất cập. Điểm nhấn của chương trình, theo GS Nguyễn Minh Thuyết - Tổng chủ biên Chương trình giáo dục phổ thông mới, là thay đổi cơ bản từ việc truyền đạt kiến thức sang phát huy kỹ năng, sáng tạo của người học.

Nhìn tổng thể, chương trình cơ bản chia làm 2 giai đoạn: Giai đoạn giáo dục cơ bản, gồm cấp học tiểu học và THCS; Giai đoạn giáo dục định hướng nghề nghiệp là bậc học THPT. Trong đó đưa thêm nhiều môn học mới như hoạt động trải nghiệm, giáo dục địa phương… Lộ trình thực hiện theo hình thức cuốn chiếu là: Từ năm 2020 - 2021áp dụng cho lớp 1; Năm 2021 - 2022 áp dụng cho lớp 2 và 6; Năm 2022 - 2023 áp dụng cho lớp 3, 7, 10; Năm 2023 - 2024 áp dụng cho lớp 4, 8, 11; Và năm 2024 - 2025 áp dụng cho lớp 5, 9, 12. Song hành với chương trình tổng thể, chương trình các phân môn học cũng đã xây dựng xong. Chỉ chờ còn khâu sách giáo khoa, viết xong là đánh giá và đưa vào lựa chọn sử dụng…

Bước đầu mọi khâu như thế cơ bản đã xong. Điều này khiến nhiều người lạc quan tin tưởng vào sự thành công “đầu” đã “xuôi”, thì “đuôi” sẽ “lọt”. Tuy nhiên còn khá nhiều người e dè, hoài nghi đến kết quả. Và một số bộ phận không nhỏ kiên nhẫn chờ đợi đến khi thực hiện mới đưa ra nhận định, đánh giá. Sở dĩ có nhiều thái độ biểu hiện như thế là vì, theo chúng tôi, còn nhiều việc chúng ta cần phải làm, phải có để tạo “lòng tin vững chắc” ngay thời điểm “giao thời” này.

    Những cái lo cần phải “nhảy” trước khi “nước đến chân”

 Một, Đầu tiên phải kể đến ở đây là nhân tố con người, mà người trực tiếp thực hiện là đội ngũ giáo viên hiện nay. Mặc dù theo ông Hoàng Đức Minh (Cục trưởng Cục Nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục), khi trả lời báo chí gần đây là rất tin tưởng vào đội ngũ giáo viên sẽ đáp ứng yêu cầu. Tin tưởng về việc đào tạo giáo viên cốt cán, về đầu tư bồi dưỡng hơn về công nghệ thông tin. Và Bộ cũng tính đến vấn đề thừa thiếu giáo viên và giao cho các đơn vị về việc tuyển dụng và định mức công việc để có thể đáp ứng chương trình. Tuy nhiên, chúng ta không thể không băn khoăn về sự thiếu đồng bộ của giáo viên từ các địa phương, về đội ngũ khá mỏng của nhà giáo đạt chuẩn, về khiếm khuyết của sự kế thừa, về chiến lược, tầm nhìn của các trường sư phạm…

 Hai, để thực hiện thành công, không thể không kể đến nhân tố thứ hai là điều kiện cơ sở vật chất. Về mặt này, theo ông Phạm Hùng Anh - Cục trưởng Cục Cơ sở vật chất, cấp THCS và THPT cho biết: Ở bậc tiểu học thì khó khăn hơn một chút nhưng Bộ đã xác định từ lâu là tập trung nâng cao điều kiện cơ sở vật chất của trường, trong đó hỗ trợ nâng cao chương trình kiên cố hóa trường lớp. Từ năm 2014, tỷ lệ kiên cố hóa cả nước là hơn 70%, thì năm 2018 nâng lên hơn 80%. Mặc dù sĩ số trung bình học sinh trong một lớp ở cấp tiểu học ở một số vùng là đủ điều kiện. Chẳng hạn tỷ lệ này ở vùng Tây Bắc là 23, Tây nguyên là 27 học sinh trong 1 lớp. Tuy nhiên, một số thành phố lớn như Hà Nội, TP.HCM, sĩ số bị vượt quá quy định vẫn còn là một bài toán cực kỳ nan giải.

 Ba, việc biên soạn sách giáo khoa vẫn chưa có hồi kết. Còn nhiều ý kiến bất nhất về chủ trương một chương nhiều bộ sách giáo khoa. Vấn đề này đã từng làm GS Nguyễn Minh Thuyết phải phân trần khi trả lời báo chí mới đây: “Thời gian qua có một số ý kiến phân tán nói "ngược" Nghị quyết Quốc hội là chỉ làm một bộ SGK. Tôi cho là Bộ GD-ĐT đã tính toán ưu thế cũng như thách thức gặp phải, trên cơ sở đó có giải pháp thực hiện. Tôi cho là đảo ngược nghị quyết là khó”. Sự quyết đoán khá tin tưởng đó của GS Thuyết cho ta tin tưởng về sự thành công của việc ra đời nhiều bộ sách giáo khoa mới đưa vào lựa chọn sử dụng. Tuy nhiên, chúng ta phải chờ!

 Ngoài ra, còn phải kể thêm nhiều lo lắng khác như: chương trình giáo dục địa phương áp dụng thế nào cho hiệu quả, hoạt động trải nghiệm tổ chức ra sao để không đơn điệu, nhàm chán. Và dạy học theo dự án, theo chuyên đề… phải sáng tạo ra sao để không lặp lại lối mòn, hình thức… Chỉ cần nhìn riêng ở môn ngữ văn, những băn khoăn của PGS.TS Đỗ Ngọc Thống, Chủ biên bộ môn ngữ văn cũng đã cho thấy điều đó: “Với chương trình ngữ văn mới ở THPT, ngoài 3 tiết học bắt buộc, mỗi lớp có thêm 35 tiết/1 năm cho các chuyên đề học tập tự chọn dành cho những học sinh có thiên hướng khoa học xã hội và nhân văn. Các chuyên đề này giúp học sinh có cái nhìn khái quát và tập nghiên cứu về nội dung, giá trị và tiến trình lịch sử văn học; phong cách văn học, một số vấn đề tiếng Việt và hoạt động văn học thiết thực, gần gũi, đáp ứng sở thích, nhu cầu của các em. Tuy nhiên, chỉ sợ GV biến chuyên đề học tập thành các bài học lý thuyết hàn lâm, nặng nề; mà không dành thời gian cho việc học sinh trao đổi, thảo luận, viết bài, sưu tầm, giới thiệu, thuyết trình về các nội dung chuyên đề để tạo hứng thú hơn trong việc học ngữ văn”.

Bạn đang đọc bài viết Đổi mới giáo dục, đừng để “nước đến chân mới nhảy”!. Thông tin phản ánh, liên hệ đường dây nóng : 0912 345 014 Hoặc email: [email protected]

Cùng chuyên mục

Tin mới